Khoa ngoại lồng ngực

Giới thiệu.

Khoa phẫu thuật ngực của Bệnh viện Chang Gung (Trường Canh) từ năm 1991 đã phát triển kỹ thuật nội soi lồng ngực cho đến ngày nay. Là nơi phát triển kỹ thuật này sớm nhất, cũng là khoa phẫu thuật lâu đời nhất ở Đài Loan. Tỷ lệ áp dụng cũng như tỷ lệ thành công của nội soi lồng ngực tại bệnh viện lên đến trên 99%, với những ưu thế như ít đau đớn sau khi mổ, lượng máu mất đi ít, thời gian nằm viện ngắn hơn. Chúng tôi từ bỏ phương thức phẫu thuật mở lồng ngực được giới y khoa sử dụng suốt gần một trăm năm, trải qua phương thức phẫu thuật ba lỗ trên ngực trước đây phát triển cho đến nay, phẫu thuật nội soi lồng ngực với vết mổ chỉ dài khoảng 2cm, bệnh nhân ung thư phổi chỉ cần nghỉ ngơi 5-7 ngày sau phẫu thuật là có thể xuất viện.

Bệnh viện có thiết bị hàng đầu là cánh tay robot phẫu thuật Da Vinci. Đối với loại phẫu thuật được cho là nguy hiểm nhất trước nay là phẫu thuật bệnh ung thư thực quản, so với tỷ lệ tử vong vào khoảng 2.9-4.2% sau phẫu thuật thì tỷ lệ này ở Bệnh viện Chang Gung chỉ ở mức 0.7%.


Lịch sử.

Năm 1976, thành lập khoa phẫu thuật tim mạch lồng ngực Bệnh viện Chang Gung Linkou (Lâm Khẩu).

Năm 1991, phát triển phẫu thuật nội soi lồng ngực khối u trung thất.

Năm 1992, hoàn thành ca phẫu thuật nội soi lồng ngực đầu tiên (tràn khí phổi tự phát). Cũng trong năm này, hoàn thành hàng loạt các phẫu thuật nội soi ngực với sự hỗ trợ bằng hình ảnh, bao gồm phẫu thuật khối u ở phổi, phẫu thuật cắt bỏ thùy, phẫu thuật khối u trung thất, phẫu thuật thực quản..v.v.

Năm 1993, phát triển phẫu thuật nội soi ngực cho bệnh nhân ung thư phổi, đưa những đặc điểm “Chang Gung” trong phẫu thuật nội soi ngực giới thiệu đến thế giới, gia nhập nhóm điều trị bệnh ung thư thực quản với sự tham gia của tất cả các khoa của bệnh viện, giới thiệu việc lên kế hoạch điều trị CCRT trước khi phẫu thuật.

Năm 1995, phát triển phẫu thuật nội soi cho bệnh nhân ung thư thực quản. Hoàn thành thực nghiệm cấy ghép lá phổi đơn trên động vật, đồng thời được Bộ Y tế chứng nhận đạt tiêu chuẩn thực hiện phẫu thuật cấy ghép phổi.

Tháng 2 năm 1997, hoàn thành ca phẫu thuật cấy ghép phổi đơn đầu tiên. Tháng 12 tổ chức Hội thảo về phẫu thuật nội soi lồng ngực châu Á Thái Bình Dương lần thứ 2 cùng với Hội thảo quốc tế đầu tiên về phẫu thuật tim xâm lấn tối thiểu.

Đặc điểm dịch vụ y tế.

Các phẫu thuật đặc biệt.

Phẫu thuật khối u vùng phổi, phẫu thuật ung thư thực quản, phẫu thuật khối u trung thất, phẫu thuật ung thư khí quản, phẫu thuật đặt stent khí quản/ phẫu thuật tái thiết khí quản/ phẫu thuật mở khí quản, các phẫu thuật liên quan đến tràn khí màng phổi/ tràn máu màng phổi/ viêm mủ màng phổi, cấy ghép phổi, giảm thể tích phổi, các chấn thương liên quan đến phổi.


Các đặc điểm điều trị.

Phẫu thuật ngực xâm lấn tối thiểu, điều trị chấn thương ngực nặng, hẹp đường hô hấp cấp tính và điều trị suy hô hấp, phẫu thuật khối u ngực, điều trị các tổn thương của bệnh về phổi ở giai đoạn cuối, phẫu thuật cấy ghép nội tạng và chăm sóc hậu phẫu, nghiên cứu cơ bản về các bệnh ở các khoang hốc.


Ba kỹ thuật điều trị ung thư hàng đầu trong phẫu thuật lồng ngực ở Bệnh viện Chang Gung.

1. Phẫu thuật ung thư phổi.

Ung thư phổi giai đoạn giữa, giai đoạn cuối: thường phát bệnh ở tầm tuổi 60-80, hầu hết các bệnh nhân ung thư phổi đều không có triệu chứng ở thời kỳ đầu. Cho đến thời kỳ thứ ba, thứ tư thì có các triệu chứng như ho, ho là triệu chứng muộn sau khi khám.

Điều trị phẫu thuật: phẫu thuật ngực cho bệnh ung thư phổi.

Số ca phẫu thuật trong năm: 250-300 ca.
 

Ung thư phổi giai đoạn đầu (tổn thương do bệnh cườm nước): khối u của bệnh giống bệnh cườm nước với đường kính thường khoảng 0.5-0.9 cm, dùng mắt thường không thể thấy được, không có dấu hiệu cũng không có triệu chứng, chỉ có thường xuyên khám sức khỏe mới phát hiện được sớm bệnh.

Điều trị bằng phẫu thuật: phẫu thuật phức hợp cắt bỏ nốt phổi có định vị (đây là kỹ thuật đặc biệt của khoa phẫu thuật ngực Bệnh viện Chang Gung).

Do các nốt phổi của ung thư phổi giai đoạn đầu không thể nhận biết được bằng mắt thường, trước khi phẫu thuật, các bác sĩ thường phải yêu cầu bệnh nhân đến phòng chụp CT để tiến hành chụp cắt lớp chẩn đoán vị trí khối u, rồi mới vào phòng mổ để phẫu thuật. Điều này làm bệnh nhân thêm mệt mỏi, tăng nguy cơ nhiễm trùng, và tăng thời gian phẫu thuật.

Khoa phẫu thuật ngực của Bệnh viện Chang Gung đã đi tiên phong, mang CT vào trong phòng phẫu thuật, và đảm bảo đáp ứng được yêu cầu vô trùng của phẫu thuật, giúp cho bệnh nhân có thể hoàn thành phẫu thuật một cách an toàn nhất không phải lo lắng gì, tỷ lệ thành công đạt trên 99%.


2. Phẫu thuật ung thư thực quản (được xem là phẫu thuật nguy hiểm nhất thế giới).

Trạng thái thường thấy: khó nuốt và giảm cân, các triệu chứng khác bao gồm đau khi nuốt, khan tiếng, nổi hạch bạch huyết ở quanh xương đòn, ho khan, ho hoặc nôn ra máu.

Tỷ lệ tử vong 30 ngày sau phẫu thuật ở các nước phương Tây là 2.9-4.2%. Tỷ lệ tử vong 90 ngày sau phẫu thuật là 7-8.9%. Thông qua các kỹ thuật phẫu thuật và sự chăm sóc chu đáo của đội ngũ y bác sĩ phẫu thuật, hiện nay Bệnh viện Chang Gung đã có trình độ phẫu thuật thực quản đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tỷ lệ tử vong 30 ngày sau phẫu thuật giảm xuống còn 0.7%. Tỷ lệ tử vong 90 ngày sau phẫu thuật là 3.5%. Đây có thể được xem như ánh bình minh cho các bệnh nhân bị ung thư thực quản.

Số ca phẫu thuật hàng năm: 70-80 ca.


3. Điều trị khối u trung thất.

Số ca phẫu thuật hàng năm: 40-50 ca.

Copyright © 2015 CHANG GUNG MEMORIAL HOSPITAL, All Right Reserved.