Ung thư cổ

Giới thiệu.

Đội ngũ chuyên gia y tế về đầu cổ tiến hành điều trị và chẩn đoán cho các bệnh nhân bị ung thư đầu cổ. Ở Đài Loan, tỷ lệ ung thư miệng vẫn tiếp tục tăng cao do các nguyên nhân về thuốc lá, rượu, trầu cau. Đội ngũ y tế của chúng tôi lồng ghép các khoa phẫu thuật thẩm mỹ, xạ trị ung thư, ung thư máu, và cung cấp kế hoạch điều trị phù hợp cho từng cá nhân của nhóm bệnh nhân này. Hầu hết các ca ung thư miệng đều sử dụng phương pháp phẫu thuật để điều trị. Đối với các bệnh nhân có phạm vi khối u cần cắt bỏ tương đối lớn, sẽ được tư vấn hội chẩn tiến hành phẫu thuật một lần cùng lúc tiến hành phẫu thuật thẩm mỹ tạo hình, trong đó bao gồm tái tạo ghép vạt da cục bộ hay ghép vạt da tự do, giúp giảm thiểu những ảnh hưởng về ngoại hình và chức năng cho bệnh nhân sau phẫu thuật.

Ngoài ra, để tiến hành chẩn đoán và điều trị đối với ung thư mũi, ung thư xoang, ung thư hầu họng, ung thư thanh quản và ung thư hạ hầu, có thể tiến hành chẩn đoán khối u bằng xét nghiệm nội soi kết hợp công nghệ hình ảnh dải ánh sáng hẹp (Narrow Band Imaging System).

Việc giữ gìn dây thần kinh vùng mặt trong điều trị ung thư tuyến mang tai. Ngoài việc tiến hành phẫu thuật truyền thống để giữ gìn sự toàn vẹn của tế bào thần kinh, trong các ca bệnh khó, đội ngũ y tế của bệnh viện của chúng tôi cũng chuẩn bị việc hỗ trợ máy kích thích dây thần kinh để hỗ trợ trong việc giữ gìn các dây thần kinh trên mặt.


Các loại điều trị:

Khối u lành tính ở cổ và đầu.

Khối u tuyến mang tai.

Khối u ở cằm.

Ung thư mũi họng.

Ung thư hầu họng.

Ung thư thanh quản.

Ung thư hạ hầu.

Ung thư tuyến nước bọt.

Ung thư vòm miệng.

Ung thư miệng.

Ung thư miệng là gì và nguyên nhân gây bệnh.

Theo phân loại của Ủy ban liên hợp về ung thư của Mỹ (AJCC), Ủy ban Liên minh quốc tế phòng chống ung thư (UICC) vào năm 1988, vùng miệng bao gồm môi, niêm mạc má, nướu hàm trên, nướu hàm dưới, khu tam giác sau răng hàm, sàn miệng, vùng cứng, 2/3 trước lưỡi. Ung thư miệng chủ yếu do sự suy giảm của các tế bào biểu mô hình thành biểu mô vảy, chỉ có một bộ phận nhỏ là ung thư tuyến do sự suy thoái của các tuyến nước bọt nhỏ. Phần lớn các ung thư miệng ở Đài Loan là ung thư niêm mạc miệng và ung thư lưỡi. Nguyên nhân gây bệnh liên quan chặt chẽ đến việc nhai trầu, hút thuốc, uống rượu, các nguyên nhân khác như vệ sinh răng miệng kém, kích thích hóa học trong thời gian dài, răng hàm khập khểnh hay răng giả không phù hợp cũng có liên quan đến nguyên nhân gây bệnh, các đốm trắng và đốm đỏ trong vùng miệng dần chuyển thành ung thư miệng, cũng có thể gây nên bệnh ung thư ở nhiều vị trí khác nhau trong khoang miệng. Ung thư là một căn bệnh gây nên do nhiều yếu tố về gen, trong đó nguyên nhân về hoàn cảnh (các vật chất bên ngoài gây nên ung thư) đóng một vai trò rất quan trọng trong việc gây nên ung thư miệng. Vì vậy mà việc phòng chống ung thư miệng càng cần thiết hơn.


Triệu chứng ung thư miệng.

Những cái gọi là tổn thương tiền ung thư bản thân nó không phải là ung thư miệng. Tuy nhiên nguyên nhân của những kích thích lâu dài luôn hiện diện hay bị bỏ qua, thì sau này có thể phát triển thành ung thư miệng. Các tổn thương tiền ung thư miệng bao gồm:

  1. Màu sắc niêm mạc miệng bị đổi màu: bình thường thì niêm mạc miệng có màu đỏ, nếu như biến thành màu trắng và không thể xóa đi được, thì lâu ngày vị trí đó sẽ trở thành đốm ban trắng. Nếu như nó trở nên đỏ hơn và không thể xóa đi, thì lâu ngày vị trí đó sẽ trở thành đốm đỏ, thường thì độ ác tính của đốm ban đỏ sẽ cao hơn ban trắng.
  2. Loét miệng: vết loét niêm mạc miệng mà không thể chữa lành sau hai tuần.
  3. Khối u: khối u không rõ nguyên nhân ở trong miệng hay bất kỳ vị trí nào ở cổ.
  4. Vận động và cảm giác của lưỡi: hoạt động của lưỡi bị hạn chế, có khó khăn trong việc nhai, nuốt hay nói, một nửa bên lưỡi bị tê hay mất cảm giác, thì cần xác định nguyên nhân càng sớm càng tốt.

Chẩn đoán ung thư miệng.

Các triệu chứng lâm sàng phổ biến của ung thư miệng là các vết loét khó chữa lành hay các khối u không rõ nguyên nhân. Nếu như có các hiện tượng miêu tả ở trên, thì nên đến kiểm tra với bác sĩ tai-mũi-họng đầu và cổ, khoa chỉnh hình hay phẫu thuật hàm-mặt-miệng. Phương pháp chẩn đoán quan trọng nhất là sinh thiết mẫu bệnh lý, việc kiểm tra này có thể xác định được là khối u lành tính hay ác tính. Nếu như có được sự điều trị thích hợp, thì khối u ác tính sẽ không thể di căn hay lây lan do việc mổ cắt bỏ.


Phân kỳ các giai đoạn ung thư miệng lâm sàng.

Giai đoạn lâm sàng của ung thư miệng ngoài việc dựa vào kiểm tra bằng mắt, kiểm tra bằng cách sờ, đôi khi cần phải nhờ đến sự hỗ trợ của chụp cắt lớp CT hay MRI để hoàn thành việc kiểm tra. Mục đích chính của việc phân kỳ các giai đoạn ung thư miệng là để lựa chọn chính xác phương pháp điều trị, tiên lượng và so sánh kết quả điều trị của các phương thức điều trị khác nhau. Hiện nay việc phân định giai đoạn của ung thư miệng là dựa vào kích thước của khối u nguyên phát (T), liệu có nút di căn hạch bạch huyết cổ hay không (N), liệu hệ thống TNM có di căn đi xa không (M) (theo phân kỳ của UICC, AJCC năm 1988) để quyết định.

Giai đoạn 0: Các tế bào khối u nguyên phát giới hạn ở biểu mô niêm mạc miệng.

Giai đoạn 1: Đường kính dài nhất của khối u là 2cm hoặc ít hơn, và chưa có hạch bạch huyết cổ di căn (hay lan xa).

Giai đoạn 2: Đường kính dài nhất của khối u lớn hơn 2cm nhưng không lớn hơn 4cm, và chưa có hạch bạch huyết cổ di căn (hay lan xa).

Giai đoạn 3: Đường kính dài nhất của khối u lớn hơn 4cm hay đã di căn đến hạch bạch huyết ở cùng một bên của cổ, đường kính dài nhất của các hạch bạch huyết này cũng không quá 3cm.

Giai đoạn 4: Có một trong các trường hợp bao gồm dưới đây:

  1. Khối u xâm lấn đến các mô liền kề (Ví dụ: thông qua các lớp ngoài của xương, tiến sâu vào các tầng sâu của cơ bắp, xoang hàm trên, da).
  2. Số lượng hạch bạch huyết cổ di căn nhiều hơn một (cho dù là tổn thương ở cùng bên với vị trí nguyên phát, bên đối diện hay cả hai bên, hay đường kính dài nhất của các hạch bạch huyết này quá 3cm).
  3. Đã xảy ra di căn xa.

Điều trị ung thư miệng.

Điều trị phẫu thuật.

Phẫu thuật cắt bỏ là bước điều trị quan trọng nhất trong điều trị ung thư miệng. Dựa theo giai đoạn bệnh khác nhau mà mức độ cắt bỏ cũng khác nhau. Về nguyên tắc, phải giữ một khoảng cách an toàn nhất định giữa khu vực cắt bỏ với khu vực khối u:

Ung thư biểu mô nguyên phát: chỉ loại bỏ các khu vực tổn thương.

Giai đoạn 1: chỉ cắt bỏ ở khu vực bị tổn thương, theo dõi tình trạng của bệnh nhân, có thể tiến hành thêm phẫu thuật bóc tách hạch bạch huyết.

Giai đoạn 2: loại bỏ các tổn thương trên cổ và hạch bạch huyết cổ.

Giai đoạn 3: cắt bỏ khu vực mở rộng của tổn thương và bóc tách phần ở khu vực cổ.

Giai đoạn 4: loại bỏ khu vực rộng lớn của tổn thương và bóc tách phần ở khu vực cổ, có thể bao gồm da mặt, hay một phần xương quay hàm trên, dưới.


Xạ trị.

Với khối u ở giai đoạn đầu có kích thước khá nhỏ, phương pháp xạ trị và phẫu thuật đều hiệu quả, tuy nhiên đối với bệnh nhân ở giai đoạn thứ 3 và thứ 4, cần phải xem xét tình trạng bệnh để tiến hành tổng hợp xạ trị và phẫu thuật. Đặc biệt là khi miệng vết mổ vẫn còn sót lại tế bào ung thư, hạch bạch huyết xâm phạm đến bên ngoài, đến dây thần kinh hay sự xâm lấn của hạch bạch huyết, thì phải kết hợp phẫu thuật và phẫu thuật để điều trị.


Hóa trị.

Tổng hợp của nhiều nghiên cứu đã cho thấy, hóa trị trước hay sau phẫu thuật có khả năng giảm thiểu một số di căn xa. Đối với giai đoạn sau (giai đoạn 3, 4) của ung thư miệng do không thể hay không phù hợp thực hiện phẫu thuật cắt bỏ, thì nên xem xét đến việc kết hợp xạ trị với hóa trị. Đối với bệnh nhân mà phẫu thuật có thể hoàn toàn cắt bỏ khối u, hóa trị trước phẫu thuật không thể cải thiện việc khống chế bệnh từng vùng hay gia tăng khả năng sống của bệnh nhân.


Khác.

Liệu pháp miễn dịch, gen, hay liệu pháp sinh học khác, cho đến nay vẫn đang được nghiên cứu.


Theo dõi và kiểm tra.

Việc tái phát ung thư miệng thường diễn ra trong 1 năm sau phẫu thuật. Do đó định kỳ 1 tháng phải tiến hành theo dõi ít nhất một lần, năm thứ hai thì mỗi 2 tháng thăm khám ít nhất một lần, năm thứ ba thì mỗi 3 tháng theo dõi ít nhất một lần, sau đó thì có thể nửa năm thăm khám 1 lần. Mỗi 6 tháng phải tiến hành chụp X-quang ngực 1 lần. Ngoài ra, trong thời gian theo dõi phải chú ý việc di căn xa và sự xuất hiện của khối u nguyên phát thứ hai.


Ngăn ngừa ung thư miệng.

Có rất nhiều nguyên nhân gây nên ung thư, trong đó các chất gây ung thư từ bên ngoài (thuốc lá, rượu, trầu cau) là nguyên nhân rất lớn dẫn đến chứng ung thư miệng. Việc loại trừ các chất gây ung thư miệng này có tác dụng giúp ngăn ngừa ung thư miệng. Hiện nay đã có nghiên cứu chỉ ra rằng việc sử dụng các vitamin A có tác dụng giúp người bệnh ung thư đầu cổ giảm thiểu tỷ lệ xuất hiện khối u nguyên phát thứ hai.


Kết luận.

Ung thư miệng có liên quan mật thiết đến thói quen hút thuốc, uống rượu, nhai trầu..v.v. Cùng với sự gia tăng số lượng người hút thuốc và nhai trầu, thì số lượng người có nguy cơ mắc bệnh ung thư miệng ở Đài Loan cũng tăng đều đặn. Nếu bạn phát hiện miệng mình có vết loét lâu lành hay khối u không rõ nguyên nhân, thì nên tham khảo ý kiến bác sĩ. Điều trị ung thư miệng chủ yếu dựa vào phẫu thuật, và cũng có thể kết hợp với xạ trị và hóa trị. Việc chẩn đoán và điều trị đúng ở giai đoạn đầu không chỉ cải thiện khả năng chữa lành bệnh, mà còn giảm những đau đớn gây nên do điều trị.

Chia sẻ bệnh án.

Chia sẻ bệnh án.

Bệnh nhân ung thư miệng sau khi phẫu thuật và được chỉnh hình phục hồi (lấy từ bài nghiên cứu của Bác sĩ Chun-Ta Liao “Annals of Surgical Onolcogy”, năm 2008).

Copyright © 2015 CHANG GUNG MEMORIAL HOSPITAL, All Right Reserved.