Các bệnh về não có thể phân thành các loại dưới đây.
1. Phẫu thuật khối u tuyến yên.
Ở các nước như Mỹ, Đức, Italy, phẫu thuật nội soi tuyến yên đã có lịch sử phát triển 10 năm nay, kết quả sơ bộ rất nổi bật, hiện nay nó đã gần như trở thành phương pháp phẫu thuật tiêu chuẩn. 8 năm nay, bệnh viện đã có gần 500 ca phẫu thuật nội soi thông qua xoang mũi và 400 phẫu thuật cắt bỏ khối u tuyến yên.
Tuyến yên là trung tâm điều khiển nội tiết của cơ thể. Vị trí của nó nằm vào khoảng giữa 2 mắt với độ sâu khoảng 1 ngón tay ở trong não, bao gồm nhiều tuyến nội tiết khác nhau. Trong điều kiện bình thường, các hormone được các tuyến nội tiết tiết ra có chức năng điều tiết và cân bằng cơ thể, ví dụ như trong thời gian mang thai thì lượng prolactin gia tăng, hormone tăng trưởng phải được duy trì trong một phạm vi nhất định, để điều phối sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể, hormone cortisol giúp duy trì hoạt động thể chất. Sự gia tăng bất thường của các kích thích tố, sẽ dẫn đến hàng loạt các triệu chứng. Nếu như các hormone giúp duy trì chức năng bình thường của cơ thể này bị tiết ra quá nhiều do sự gia tăng của polyp tuyến, sẽ cản trở trạng thái và các chức năng của cơ thể. Ví dụ như u tuyến yên lành tính có thể gây chảy sữa, kinh nguyệt không đều, vô sinh, hay bất lực ở nam giới. Còn sự dư thừa hormone tăng trưởng lại có thể gây nên chứng đầu ngón chân tay phình to, còn nếu lượng hormone cortisol quá nhiều thì sẽ xuất hiện triệu chứng giống như khi dùng quá nhiều thuốc steroid, béo phì, mặt hình mặt trăng, vai trâu, tăng đường huyết, loãng xương, bệnh tim mạch..v.v.
Một loại khối u khác không có triệu chứng biểu hiện lượng nội tiết quá nhiều, chủ yếu là do khối u khối lượng lớn, dẫn đến chèn ép khu thần kinh thị giác gần đấy, dẫn đến tình trạng tầm nhìn bị hẹp và suy giảm thị lực. Các khối u lớn hơn hoặc đã xâm lấn vào bên cạnh xoang tĩnh mạch, thậm chí có thể ảnh hưởng chuyển động của nhãn cầu và các mạch máu lớn xung quanh não.
Ngoài ra, có một loại bệnh mà khối u có thể làm tắc nghẽn mạch máu hay chứng xuất huyết ngoài ý muốn, dẫn đến mất thị lực cấp tính hay mất ý thức, và thậm chí là hôn mê. Loại bệnh ngoài ý muốn này được gọi là “đột quỵ do khối u não”. Đây là phẫu thuật thần kinh cấp tính, thường cần phải tiến hành phẫu thuật giải nén thần kinh khẩn cấp. Nếu như thời gian điều trị không bị chậm, thì hiệu quả điều trị khá tốt. Tỷ lệ mắc bệnh cấp tính này không thấp, xảy ra ở khoảng 10% các bệnh nhân có khối u tuyến yên.
Với sự tiến bộ của các loại thuốc và xạ trị ngày nay, kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy, ngoài một số loại khối u chức năng nhỏ do rối loạn nội tiết tố, mà có thể điều trị bằng thuốc ra, hầu hết các khối u đòi hỏi phải phẫu thuật cắt bỏ, thì thành quả kiểm soát bệnh mới tốt.
Các phương pháp điều trị phẫu thuật ở trong và ngoài nước hiện nay phân thành:
1. Thủ thuật mở sọ.
2. Phẫu thuật bằng vi phẫu bóc tách vách ngăn mũi.
3. Ba dạng phẫu thuật thông qua lỗ mũi (không buộc phải bóc tách nội mạc).
Trên 90% khối u có thể sử dụng phẫu thuật qua mũi để hoàn thành, còn các phẫu thuật mở sọ để loại bỏ khối u thì không tới 10%.
Phẫu thuật thông qua mũi hay thủ thuật mở sọ đều có những chỉ định khác nhau, và hình dạng cũng như phạm vi lan rộng của khối u, kích thước của khoang mũi đều là những yếu tố cần cân nhắc. Sử dụng phương pháp mở sọ thì các rủi ro tương đối cao mà tỷ lệ loại bỏ bệnh lại không cao, vì vậy nên càng ngày càng ít người dùng phương pháp này. Còn phương pháp thông qua tách vách ngăn mũi, thì bệnh nhân cần phải chèn mũi để ngăn chảy máu trong suốt 3-5 ngày, khá là khó chịu.
Phương pháp phẫu thuật nội soi mới nhất thông qua mũi không yêu cầu bóc tách niêm mạc, vết rạch chỉ có kích thước khoảng 1-2cm. Sau phẫu thuật không cần chèn mũi, chỉ 3-4 ngày là có thể xuất viện. Phương pháp cắt bỏ do được hỗ trợ của nội soi từ nhiều góc độ nên tỷ lệ loại bỏ tương đối cao, tỷ lệ hài lòng và chấp nhận của bệnh nhân cũng rất cao.
2. Phẫu thuật não úng thủy.
Đối với chứng tắc nghẽn não úng thủy, cần phải đặt ống thoát nước trong não thất. Với kỹ thuật nội soi hiện nay, có thể tiến hành mở miệng vết thương ở não thất bên, khiến cho nước dịch có thể chảy qua các vùng bị tắc nghẽn, giúp đạt được hiệu quả thoát dịch. Thậm chí một số bệnh nhân bị dính não thất cũng cần đặt rất nhiều ống thoát, nếu như có phẫu thuật nội soi để mở niêm mạc, thì có thể giảm số lượng các ống phải đặt (giảm thiểu các nguy cơ tiềm ẩn khi đưa vật lạ vào cơ thể). Tỷ lệ thành công của loại phẫu thuật này tại bệnh viện chúng tôi ở khoảng 80%, thời gian phẫu thuật chỉ có khoảng 30 phút.
3. Phẫu thuật khối u trong (bên cạnh) não thất.
Vị trí tâm thất nằm ở sâu trong não, nếu như có khối u, và cần phải xét nghiệm sinh thiết thì khá phức tạp (cần thực hiện thủ thuật mổ sọ để mở mô não để tiến vào). Với phương pháp bức xạ Stereotactic, do vị trí của khối u nên rủi ro khá cao (dễ gây ra chảy máu), vì vậy không khả thi.
Phẫu thuật nội soi là một phương pháp xâm lấn tối thiểu, tiến hành sinh thiết, và thậm chí là cắt bỏ khối u. Bệnh viện của chúng tôi hiện đã thực hiện cho 20 trường hợp. Bệnh nhân sau khi tiến hành sinh thiết hay cắt bỏ khối u, cần phải nhanh chóng kết hợp với hóa trị hay xạ trị.
Nội soi não trong 10 năm trở lại đây rất được chú ý. Và nhờ những tiến bộ trong công nghệ đã giúp cho việc kiểm soát các bệnh về não càng ổn định. Độ rõ nét của hình ảnh trong nội soi cũng được nâng cao, và hình ảnh nội soi cũng có thể lựa chọn từ nhiều góc độ, cung cấp cho bệnh nhân một phương pháp điều trị an toàn hơn.